Hệ ổn định cho sản xuất kem: Mịn, không đá nhỏ, lâu tan
08/01/2024Giải pháp sản xuất ice-cream (kem lạnh)
30/01/2024
Mỗi khu vực đều có định nghĩa và các chất tạo nên phụ gia màu khác nhau, với những yêu cầu và hạn chế sử dụng liên quan.
Người ta hay nói “Ăn bằng mắt”, từ thời cổ đại, con người đã biết sử dụng màu sắc để phân biệt chất lượng thực phẩm. Màu sắc giúp đánh giá độ chín, cảm nhận hương vị và đánh giá chất lượng món ăn.
Các nền văn minh cổ đại đã đưa màu sắc vào món ăn của họ. Người Ai Cập cổ đại nhuộm vàng thực phẩm của họ bằng nghệ tây, và người Maya cổ đại sử dụng Annatto để làm thực phẩm của họ có màu đỏ cam. Người La Mã giàu có ăn bánh mì đã được làm trắng bằng cách thêm phèn vào bột mì. Màu sắc được sử dụng để tăng vẻ bề ngoài của sản phẩm. Tuy nhiên, nếu nó làm chất lượng sản phẩm có vẻ tốt so với thực tế thì đó được xem là một hành vi gian dối. Đây là định nghĩa có phạm vi rộng hơn của sự làm giả. Tại Pháp năm 1396, một sắc lệnh cấm tạo màu cho bơ được ban hành. Đây là một trong những điều luật đầu tiên chống lại sự làm giả thực phẩm.
Qua nhiều thế kỷ, những cải tiến trong việc bảo quản thực phẩm bằng cách làm lạnh, đóng hộp và chế biến, tất cả đều để kéo dài thời hạn sử dụng của thực phẩm, cũng như thay đổi màu vốn có của thực phẩm. Quy mô chế biến lớn và nhu cầu nhiều loại thực phẩm hằng năm đã dẫn đến việc thành lập một tổ chức thống nhất về thực phẩm. Tuy nhiên việc lạm dụng màu thực phẩm sớm đã được công nhận là đe dọa đến sức khỏe cộng đồng. Điều đáng lo ngại là một số chất được cho là độc hại và thường được kết hợp nhằm che giấu sự kém chất lượng của thực phẩm, thêm một số lượng lớn vào thực phẩm và bắt chước như thực phẩm thật.
Ngày 1, tháng 2 năm 1899, ủy ban điều hành của Hiệp hội Các nhà sản xuất Bánh Kẹo quốc gia đã ban hành một thông tư chính thức nhằm “ làm sáng tỏ câu hỏi gây nhiều tranh cãi về màu sắc nào có thể được sử dụng an toàn trong sản xuất bánh kẹo” vì “đôi khi có sự nghi ngờ về tâm của người làm bánh kẹo trung thực như thế nào về màu sắc, hương vị, hoặc thành phần mà anh ấy có thể sử dụng an toàn hay có thể loại bỏ.” Dưới đây là danh sách bao gồm 21 màu được cho là có hại và 33 màu vô hại.
Năm 1906, Đạo luật Thực phẩm và Dược phẩm đã được Quốc hội thông qua. Đạo luật này cấm thêm màu “độc hại” vào sản xuất bánh kẹo, và cấm thêm các chất tạo màu vào thực phẩm nhằm mục đích che đậy sự kém chất lượng.
Bởi vì sự an toàn tuyệt đối của một số bản chất có thể chẳng bao giờ chứng minh được, FDA phải xác định nếu phụ gia là an toàn dưới các điều kiện được đề xuất sử dụng, dựa trên kiến thức khoa học tốt nhất hiện có.
Năm 1938, Đạo luật Thực Phẩm và Dược phẩm xem xét và chứng nhận của màu thực phẩm là bắt buộc. Trách nhiệm chứng nhận thuộc về Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ. Năm 1959, Đạo luật về Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ Phẩm được thông qua. Chất phụ gia màu được thêm vào năm 1960. Luật này bao gồm một điều khoản, được gọi là Điều khoản Delaney, quy định rằng không có thực phẩm hoặc chất phụ gia màu nào có thể được coi là an toàn — hoặc được FDA chấp thuận — nếu bị phát hiện gây ung thư ở người hoặc động vật.
Đạo luật này cũng chia phụ gia màu thành hai loại – được chứng nhận và miễn chứng nhận – và đồng thời phân chia tiếp thành màu được chứng nhận vĩnh viễn và chứng nhận tạm thời. Đạo luật năm 1960 yêu cầu các nhà sản xuất tài trợ thử nghiệm độc tính mới. Dựa trên điểm dữ liệu và các yếu tố an toàn. FDA xác định mức an toàn cho thực phẩm và màu.
FDA so sánh mức tiếp xúc an toàn với lượng có thể tiêu thụ trong thực phẩm, có tính đến thành phần và tính chất của chất đó cũng như các điều kiện sử dụng được đề xuất. Bởi vì sự an toàn tuyệt đối của một số bản chất có thể chẳng bao giờ chứng minh được, FDA phải xác định nếu phụ gia là an toàn dưới các điều kiện được đề xuất sử dụng, dựa trên kiến thức khoa học tốt nhất hiện có.
Với phụ gia phẩm màu, FDA cũng phải xác định sự phù hợp của chúng khi sử dụng. Cục An Toàn Phụ Gia Thực Phẩm, trước đây là Cục Phê Duyệt Trước Tiếp Thị, đánh giá thông tin này. Bởi vì đây là những quy định nghiệm ngặt và đầy đủ đánh giá phụ gia, và bởi vì Điều luật Delaney, các chất phụ gia của FDA được xem là “ Không rủi ro” hoặc “Rủi ro tối thiểu” với mức tiêu thụ.
Bắt đầu từ năm 1956, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) và Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã bắt đầu thu thập và đánh giá dữ liệu khoa học về phụ gia thực phẩm và đưa ra mức độ an toàn sử dụng. Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm Quốc tế được thành lập vào năm 1963 bởi FAO và WHO để xây dựng tiêu chuẩn thực phẩm, hướng dẫn và văn bản liên quan như quy tắc thực hành trong Chương trình Tiêu chuẩn Thực phẩm chung của FAO/WHO.
Nhiệm vụ xây dựng mức độ sử dụng của phụ gia và phát triển tiêu chuẩn được giao cho Ủy ban Chuyên gia Quốc tế về Phụ gia Thực phẩm (JECFA), cũng đã được thành lập vào năm 1955. Hầu hết các tiêu chuẩn này được xây dựng trên ADI (lượng tiêu thụ hàng ngày chấp nhận được) đối với chất phụ gia, bao gồm cả chất phụ gia màu. Triết lý ADI này là hạn chế ung thư. Loại triết lý này là triết lý “ Rủi ro thấp”. JECFA cũng chịu trách nhiệm cho việc xây dựng chuyên khảo định tính và độ tinh khiết riêng biệt của từng loại phụ gia thực phẩm. Các chất phụ gia được gắn số INS. Công việc của JECFA đưa các chất phụ gia vào Tiêu chuẩn chung của Codex cho hệ thống phân loại phụ gia thực phẩm (GSFA). Hệ thống này là một hệ thống phân cấp và áp dụng cho tất cả các loại thực phẩm, kể cả những loại thực phẩm không được phép sử dụng phụ gia thực phẩm. Hệ thống đã thiết lập danh mục đinh nghĩa thực phẩm. Ví dụ, bánh kẹo là loại (05.0) và “bao gồm tất cả sản phẩm cocoa và chocolate (05.1), các sản phẩm khác có thể chứa hoặc không chứa cooa (05.2), kẹo cao su (05.3), và đồ tráng trí và kem phủ (05.4), hoặc thực phẩm được sản xuất chỉ với bất kỳ sự kết hợp nào của thực phẩm phù hợp với các phân nhóm này.” Trong GSFA, JECFA sẽ xây dựng giới hạn sử dụng cuối cùng cho tát cả phụ gia, dựa trên mẫu tiêu thụ, trong từng danh mực sản phẩm thực phẩm cụ thể. www.codexalimentarius.net/gsfaonline/foods/index.htm
Nguyên tắc chung của CodexAlimen-tarius là hướng dẫn và thúc đẩy sự cân đối luật thực phẩm giữa các quốc gia và để áp dụng các tiêu chuẩn đã được quốc tế thống nhất.
Điều này dẫn đến ít rào cản thương mại và sự vận chuyển tự do của các sản phẩm thực phẩm giữa các quốc gia sẽ mang lại lợi ích cho nông dân và gia đình của họ, đồng thời sẽ giúp giảm đói nghèo.
Mỹ và Nhật Bản áp dụng triết lý “Không Rủi Ro”. JECFA và Ủy ban Châu Âu (EC) của Liên minh Châu Âu (EU) áp dụng triết lý “Rủi ro thấp”. Đó là triết lý “Rủi ro thấp” mà chúng ta thấy trong các quy định mới và sửa đổi.
Khi chúng tôi xem xét kỹ hơn những chất tạo thành phụ gia màu ở mỗi quốc gia, điều đó cũng quan trọng để nhớ rằng thực thể cũng có yêu cầu về độ tinh khiết, và hạn chế màu và những phụ gia khác dựa trên thành phẩm được bán cho người tiêu dùng. Có hơn 100 cơ quan quản lý chính phủ, các hiệp định thương mại quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức thương mại công nghiệp giám sát các quy định về thực phẩm. Chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề này sâu hơn.
QUY ĐỊNH U.S
Tại Hoa Kỳ, đạo luật này quy định một vật liệu đáp ứng được định nghĩa về chất phụ gia màu được miễn mục 721 của đạo luật, trên cơ sở nó được sử dụng (hoặc nhằm mục đích sử dụng) chỉ cho mục đích hoặc các mục đích khác ngoài việc tạo màu, vật liệu phải được sử dụng theo cách mà bất kỳ màu nào được truyền đạt rõ ràng là không quan trọng trong chừng mực hình thức, giá trị, khả năng tiếp thị hoặc khả năng chấp nhận của người tiêu dùng là (Sẽ không đủ để đảm bảo được miễn trừ nếu có các điều kiện cho thấy mục đích chính của tài liệu không phải là để truyền màu.)
Nói một cách rõ ràng, nếu mục đích của 1 phụ gia là làm thay đổi màu của thực phẩm, thì phụ gia đó là chất phụ gia tạo màu. Về màu sắc, nó được chấp nhận như là 1 màu được sử dụng trong thực phẩm bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm.
Hai danh mục chính tạo nên danh sách các chất phụ tạo màu của FDA. Chúng được chứng nhận là phụ gia tạo màu và phụ gia tạo màu được miễn chứng nhận. Các chất phụ gia tạo màu được chứng nhận chủ yếu là màu hữu cơ tổng hợp nhân tạo. Nhà sản xuất gửi mẫu của lô để chứng nhận và FDA kiểm nghiệm mẫu đó để xác định xem nó có đáp ứng yêu cầu về thành phần và độ tinh khiết của màu hay không. Khi lô đó được phê duyệt, FDA cấp phát chứng nhận mã số của lô hàng, và nhà sản xuất có thể bán sản phẩm. Tên được thay đổi theo danh pháp FD&C. Chỉ khi đó lô hàng đó mới có thể được sử dụng theo quy định của FDA về màu. Sau đây là danh sách các chất phụ gia tạo màu phải được chứng nhận:
- FD&C Red #3
- FD&C Red #40
- FD&C Yellow #5
- FD&C Yellow #6
- FD&C Green #3
- FD&C Blue #1
- FD&C Blue #2
Các chất phụ gia tạo màu miễn chứng nhận phần lớn từ thực vật, động vật hoặc khoáng sản, hoặc sự biến thể tổng hợp của chất tạo màu tự nhiên. Mặc dù không phải chứng nhận lô nhưng chúng vẫn là chất phụ gia tạo màu nhân tạo và phải đáp ứng các yêu cầu về thành phần và độ tinh khiết như được liệt kê trong Bộ luật Quy định Liên bang. Một số chất phụ gia tạo màu được miễn chứng nhận có giới hạn trong thành phần phân loại của sản phẩm thực phẩm hoặc hàm lượng thành phần sử dụng. Điều quan trọng là phải kiểm tra 21 CFR Mục 73 để biết những hạn chế này. Các chất phụ gia màu phổ biến được miễn chứng nhận được thể hiện trong Hình 1. Tại Hoa Kỳ, chất phụ gia tạo màu được yêu cầu có nhãn. Các màu được chứng nhận phải luôn được khai báo theo tên trong bản tuyên bố thành phần. Điều đó không cần thiết đối với tiền tố FD&C hoặc thuật ngữ No. trong công bố, mặc dù thuật ngữ “lake” nên được đưa vào nếu có (ví dụ Vàng 5, Blue 1 Lake).
Chất phụ gia tạo màu miễn chứng nhận được mô tả trong 21 CFR Mục 73. Các phương án ghi nhãn cho hầu hết các màu được miễn chứng nhận đều rất đa dạng và bao gồm các phương án sau:
Màu nhân tạo
Màu nhân tạo được bổ sung
Màu bổ sung
Màu với (điền theo tên màu như mô tả ở mục 73)
FDA cũng cho phép sử dụng các thuật ngữ thay thế có thông tin tương đương, miễn là nó được chỉ rõ ràng rằng màu sắc đã được sử dụng. Các ngoại lệ đối với các phương án trên được biểu thị bằng một tuyên bố trong phần mô tả màu được miễn trừ ở Phần 73 có nghĩa là việc khai báo phải theo tên công bố. Hiện tại, chỉ có màu được miễn chứng nhận khai báo theo tên công bố là chiết xuất cochineal và carmine.
Mặc dù ngành công nghiệp thường đề cập đến màu được miễn chứng nhận là màu tự nhiên,việc sử dụng thuật ngữ này bị cấm trên bảng công bố thành phần. Không phụ thuộc vào nguồn gốc của màu, quy định của FDA không coi bất kỳ màu nào được thêm vào là tự nhiên trừ khi màu sắc “tự nhiên” của chính sản phẩm thực phẩm, chẳng hạn như màu kem dâu tây với nước ép dâu tây.
QUY ĐỊNH CỦA EU
Liên minh Châu Âu bao gồm 26 quốc gia, với 5 quốc gia ứng cử viên. EU đã mất nhiều năm để đạt được cơ cấu như hiện tại trong các quy định của mình. Chỉ thị đầu tiên cho chất phụ gia tạo màu vào năm 1962. Họ sử dụng hệ thống phân loại số E. Tieps theo đó là chỉ thị khác về các chất bảo quản, chất chống oxy hóa và chất nhũ hóa. Hệ thống này vẫn cho phép các quốc gia thành viên nêu rõ loại thực phẩm nào có thể có các chất này và mức tối đa cho phép.
Sự cân đối các chất phụ gia thực phẩm là động lực thúc đẩy cộng đồng, và đã được trong chỉ thị khung 89/107. Chỉ thị này bao gồm 3 chỉ thị khác riêng biệt về màu sắc, chất tạo ngọt và các chất phụ gia khác. Nó có hỗ trợ hướng dẫn về tiêu chí độ tinh khiết. Tuy nhiên, điều này cần đòi hỏi các quốc gia thành viên thông qua và thực hiện.
Trách nhiệm đối với rủi ro của phụ gia thực phẩm thuộc về Cục Bảo vệ Sức Khỏe và Người Tiêu Dùng (DG Sanco). Đánh giá rủi ro cụ thể về sự an toàn của các thành phần thực phẩm được Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) xem xét. EFSA có hai phần. Hội thảo về Phụ gia thực phẩm và Nguồn dinh dưỡng bổ sung vào thực phẩm (ANS) giải quyết các vấn đề về an toàn trong việc sử dụng phụ gia thực phẩm, nguồn dinh dưỡng và các chất khác được thêm vào thực phẩm, không bao gồm hương liệu và enzym. Hội thảo ANS áp dụng triết lý “Rủi ro thấp”, với triết lý “nguyên tắc phòng ngừa” bổ sung. Nguyên tắc phòng ngừa là quan điểm “thà an toàn còn hơn xin lỗi”.
Bắt đầu từ năm 2008, các chỉ thị đã được thay thế với một khuôn khổ mới, rộng hơn cho các chất phụ gia. Quy định mới 1333/2008 có hiệu lực vào ngày 20 tháng 1 năm 2010. Vào tháng 11 năm 2011, các điều khoản chi tiết được xây dựng để thay thế các yêu cầu của chỉ thị đã được công bố trong Quy định 1129/2011, trong đó đưa ra những sửa đổi đáng kể cho Quy định 1333/ 2008. Những quy định này có hiệu lực vào ngày 1 tháng 6 năm 2013. Tiêu chí về độ tinh khiết đã được cập nhật để phù hợp với các chuyên khảo của JECFA và được xuất bản trong Quy định 231/2012.
Tại EU, các thành phần được thêm vào thực phẩm để thay đổi màu sắc được phân loại theo một trong ba cách: như một chất phụ gia màu, như một hương vị hoặc một màu màu thực phẩm.
Quy định 1333/2008 có một số bảng về chất phụ gia có thể được sử dụng, chất phụ gia có thể được sử dụng trong chất phụ gia và thực phẩm trong đó chất phụ gia có thể được sử dụng và giới hạn mức sử dụng tối đa. Mỗi chất phụ gia có một số “E” tương ứng với số INS được liệt kê trong Codex.
Theo định nghĩa, các màu từ nguồn tổng hợp và các màu được chiết xuất có chọn lọc từ các nguồn tự nhiên cũng như các chất màu vô cơ được quy định cùng nhau. Một số chất phụ gia được cho phép ở mức lượng tử satis (gmp), trong khi những chất phụ gia khác có mức phần triệu dựa trên loại thực phẩm. Trang web do DG Sanco quản lý là một công cụ hữu ích để tra cứu các quy định. https://webgate.ec.europa.eu/sanco_foods/main/?event=display
Kể từ năm 2008, quy định này đã được sửa đổi hơn 30 lần. Vì nó mới và thường xuyên thay đổi nên nó có thể mang lại cảm giác rời rạc và dẫn đến một số nhầm lẫn. Đối với ngành bánh kẹo, một trong những sửa đổi có tác động là Quy định của Ủy ban (EU) số 380/2012 ngày 3 tháng 5 năm 2012 sửa đổi Annex II liên quan đến điều kiện sử dụng và mức độ sử dụng đối với phụ gia thực phẩm có chứa nhôm. Quy định này làm giảm số lượng phụ gia nhôm được phép sử dụng vì mức tiêu thụ nhôm tối thiểu được coi là quá cao. Cụ thể, điều này hạn chế việc sử dụng các hồ nhôm. Trong các sản phẩm bánh kẹo nói chung, việc sử dụng hồ bị hạn chế bởi màu sắc và lớp nhôm ở mức 70ppm.
Quy định EC 1333/2008 của EU có danh sách màu thực phẩm (Điều 24), việc ghi nhãn thực phẩm phải bao gồm thông tin bổ sung. Những màu này (Sunset Yellow, Quinoline Yellow, Carmoisine,
Allura Red, Tartrazine và Ponceau 4R) phải được nêu rõ những điều sau: tên số E của màu: có thể có ảnh hưởng xấu đến hoạt động và sự chú ý của trẻ em. Cụm từ được đặt ra cho những màu này là Southampton Six, dùng để chỉ trường đại học đã hoàn thành nghiên cứu. Với việc ghi nhãn bắt buộc này, việc sử dụng 6 màu Southampton ở EU hầu như đã bị loại bỏ.
Một số chất phụ gia vừa có hương vị cũng như có màu sắc. Hương liệu, như được định nghĩa trong Quy định EC 1334/2009, là những sản phẩm được thêm vào thực phẩm để tạo hoặc điều chỉnh mùi và/hoặc vị. Hương liệu có tác dụng tạo màu thứ cấp là được miễn định nghĩa phụ gia thực phẩm. Một số mặt hàng như dầu gia vị (paprika oleoresin và turmeric oleoresin), được phân loại là hương vị.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 2013, Ủy ban Thường trực về Chuỗi Thực phẩm và Thú y đã ban hành Hướng dẫn về Phân loại Chiết xuất Thực phẩm Có Đặc tính Tạo màu, Phiên bản 1. Những hướng dẫn này nên được đọc cùng với các luật phù hợp, đặc biệt là Quy định (EC) số 1333/2008 về phụ gia thực phẩm. Những ghi chú hướng dẫn này không thể hiện quan điểm chính thức của ủy ban và chúng không có ý định tạo ra hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý.
Các ghi chú hướng dẫn chứa một cây quyết định. Cây quyết định giúp xác định xem thành phần đó có phải là chất phụ gia tạo màu, hương vị hay thực phẩm hay thực phẩm tạo màu hay không. Điều quan trọng cần lưu ý là các loại thực phẩm thường được tiêu thụ ở EU, ví dụ như nước ép anh đào được thêm vào sữa chua, được coi là một loại thực phẩm. Là một loại thực phẩm, chúng sẽ được dán nhãn như vậy, ngay cả khi được thêm vào chủ yếu nhằm mục đích tạo màu. Ngoài ra, các sản phẩm được chiết xuất từ thực phẩm bằng các quá trình khác ngoài quá trình sấy khô hoặc cô đặc để sử dụng trong thực phẩm nhằm tạo màu thích hợp không tự động được coi là chất tạo màu cho thực phẩm và phải được kiểm tra và phân loại theo cây quyết định.
Việc chiết xuất có thể bao gồm từ việc chiết nước đơn giản, đến mức độ chiết chọn lọc, cho đến tách các sắc tố tinh khiết. Điều cần thiết là phải xác định khi nào sản phẩm không còn là “thực phẩm thường được tiêu dùng hoặc thường được sử dụng như một thành phần đặc trưng của thực phẩm” mà là màu sắc cần được phê duyệt.
Việc chiết xuất có chọn lọc hay không phụ thuộc vào tỷ lệ của các sắc tố so với các thành phần dinh dưỡng hoặc các chất thơm. [Quy định (EC) số 1333/2008] Để xác định thời điểm diễn ra quá trình chiết chọn lọc, hướng dẫn này cung cấp cách tính hệ số làm giàu. Tỷ lệ của các sắc tố, thành phần dinh dưỡng và thành phần thơm so với nguồn nguyên liệu đều được xem xét. Dựa trên tính toán, giá trị ngưỡng được xác định. Đối với thực phẩm tạo màu, giá trị nhỏ hơn 6. Đối với chiết xuất chọn lọc, giá trị lớn hơn 6. Cây quyết định được thể hiện trong Hình 2.
Một yếu tố được thu thập cho hướng dẫn này là các giá trị tham chiếu cho nguồn nguyên liệu. Các giá trị tham chiếu của nguồn nguyên liệu có thể có tác động đáng kể đến việc tính toán hệ số làm giàu. Vì lý do thực tế, nên sử dụng các giá trị tham chiếu dựa trên tài liệu liên quan đến phần ăn được mà màu thực phẩm được chiết xuất. Một bảng với các giá trị tham chiếu có thể áp dụng chung sẽ được lập như Phụ lục III của tài liệu hướng dẫn này.
Tại EU, chất phụ gia tạo màu phải được khai báo theo tên danh mục (màu) và số E cụ thể, ví dụ: Màu (E 171). Nếu đó là hương vị có đặc tính tạo màu thì nó phải được chỉ định theo thuật ngữ hương liệu hoặc bằng tên hoặc mô tả cụ thể hơn về hương liệu, chẳng hạn như turmeric oleoresin. Thực phẩm tạo màu phải được chỉ định theo tên cụ thể của nó, ví dụ: cô đặc/chiết xuất quả cơm cháy. Thuật ngữ thực phẩm tạo màu không phải là tên danh mục hợp pháp cũng như tên cụ thể cho thành phần liên quan.
Vào tháng 12 năm 2013, EU đã xuất bản một tài liệu hướng dẫn mô tả các loại thực phẩm. Tài liệu hướng dẫn này sắp xếp các danh mục thực phẩm theo hệ thống danh mục thực phẩm Codex GFSA. Trong khi chúng ta đã thảo luận về những gì tạo nên màu sắc và độ tinh khiết của màu sắc, DG Sanco vẫn duy trì cơ sở dữ liệu về phụ gia thực phẩm, như một công cụ để thông báo về các chất phụ gia thực phẩm được phép sử dụng trong thực phẩm ở EU và điều kiện sử dụng chúng. https://webgate.ec.europa.eu/sanco_foods/main/?event=dis play.
Mặc dù chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin nhưng nó có thể giúp tìm kiếm mối liên hệ giữa các loại thực phẩm và các chất phụ gia được phép sử dụng.
NHỮNG ĐẤT NƯỚC KHÁC:
Dưới đây là đánh giá về một số khu vực khác và cách so sánh chúng trong các lĩnh vực yêu cầu về độ tinh khiết, danh pháp, mức độ sử dụng, chứng nhận và đăng ký cũng như ghi nhãn. Khi áp dụng các quy định, điều quan trọng là phải ghi nhớ định nghĩa của sản phẩm thực phẩm trong khu vực và quy định.
Canada
Canada có lịch sử lâu dài về quản lý thực phẩm. Pháp luật cho phép là Đạo luật Thực phẩm và Dược phẩm. Hiện nay, việc sử dụng các chất phụ gia đang được Bộ Y tế Canada chỉ đạo. Màu thực phẩm được liệt kê tại Phân khu 6- B.06.01. “’Màu tổng hợp’ có nghĩa là bất kỳ màu hữu cơ nào, ngoại trừ caramel, được tạo ra bằng quá trình tổng hợp hóa học và không có màu tương đương trong tự nhiên.”
Trong bảng 3 trên website của Bộ Y Tế Canada là một danh sách chất tạo màu (danh sách chất phụ tạo màu trong thực phẩm) được phép sử dụng và được chia thành 3 phần. Phần 1 là các màu có nguồn gốc tự nhiên, là chất tổng hợp tương đương hoặc là chất màu vô cơ và thường được tuân thủ gmp. Phần 1.1-1.7 và 1A là những màu có giới hạn trong một số sản phẩm thực phẩm. Phần 2 là caramen và Phần 3 là thuốc nhuộm tổng hợp. Các quy định của Canada cho phép các màu được chứng nhận giống như Hoa Kỳ, với sự cho phép bổ sung cho amaranth. Canada yêu cầu phải có chứng nhận về chất phụ gia màu. Giới hạn sử dụng trong thực phẩm nói chung tổng cộng là 300ppm, trong đó không quá 100ppm là Brilliant Blue (FD&C Blue) 1) hoặc Fast Green FCF (FD&C Green 3). Bộ Y tế Canada quản lý các quy định trên trang web của họ.
Giống như hầu hết các khu vực khác trên thế giới, Canada cho rằng công bố thành phần, chức năng chính là tạo màu. Chỉ vì nó có chức năng khác là tạo màu, nó vẫn là màu và cần phải khai báo như vậy. Hiện tại, nhãn được phép ở Canada bao gồm cả tên tiếng Anh và tiếng Pháp. Có thể cung cấp thông tin bổ sung về tên của chất phụ gia tạo màu, cũng có thể sử dụng nhãn kép thay thế cho các yêu cầu của Hoa Kỳ và Canada, ví dụ Allura Red (red 40).
Ngoài trang wed HC, Canada còn có đường dây nóng về nhãn để bạn có thể đặt câu hỏi qua email: labelwindow @inspection.gc.ca. Trang nhãn được tìm thấy ở: http://www.inspection.gc.ca/food/labelling/ eng/1299879892810/1299879939872.
Mexico
Mexico có Norma Official Mexicana (Official Mexican Stadard), viết tắt là NOM. Đây là các tiêu chuẩn và quy định chính thức, bắt buộc đối với các chất phụ gia ở Mexico. Đối với thực phẩm, nếu ở NOM không có thì có thể áp dụng các quy định của Codex, EU hoặc Hoa Kỳ. Hiện nay, NOM chưa có tiêu chuẩn cho sản phẩm bánh kẹo.
China
Ở Trung Quốc, các quy định về màu dựa trên tiêu chuẩn GB2760-2011- Tiêu chuẩn an toàn thực phẩm quốc gia – tiêu chuẩn sử dụng phụ gia thực phẩm. Phiên bản mới nhất được triển khai vào ngày 20 tháng 6 năm 2011. Màu đã được đăng ký và dữ liệu hình thái học về độc tính phải được xem xét đối với các màu mới. Mỗi màu được kiến nghị về cách sử dụng và mức độ sử dụng trên cơ sở riêng của nó. Màu sắc có thông số kỹ thuật về độ tinh khiết riêng theo Codex. Tuy nhiên, có một số quy định nhập khẩu bất thường khi bạn trộn màu với các chất phụ gia khác. GB 26687-2011 Tiêu chuẩn quốc gia về an toàn thực phẩm, Quy tắc chung về phụ gia thực phẩm tổng hợp giới hạn hàm lượng chì tổng dưới 2ppm và hàm lượng asen tổng dưới 2ppm, bất chấp giới hạn đối với từng chất phụ gia.
Nhật Bản:
Nhật Bản đã xây dựng các quy định riêng dựa trên kiến tức của chính họ giống như cách làm của Hoa Kỳ. Các thông số kỹ thuật và tiêu chuẩn đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm, .. theo đạo luật Vệ Sinh Thực Phẩm được Tổ Chức Ngoại Thương Nhật Bản (JETRO) xuất bản bằng tiếng Anh.
Trong đạo luật, họ liệt kê các màu và các chất phụ gia khác được phép sử dụng. Màu có thể như sau: các chất phụ gia khác với tiêu chuẩn sử dụng; Phụ gia thực phẩm không có tiêu chuẩn sử dụng; Phụ gia thực phẩm hiện có; và Các chất thường được cung cấp dưới dạng Thực phẩm và được sử dụng làm phụ gia thực phẩm. Ngoài ra, Nhật Bản còn có các định nghĩa tiêu chuẩn về các loại thực phẩm, cùng với hai loại thực phẩm đặc biệt: Thực phẩm dành cho mục đích sử dụng sức khỏe cụ thể (FOSHU) và Thực phẩm có công bố chức năng dinh dưỡng (FNFC). Bản dịch tiếng Anh của Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn thực phẩm nằm ở http://www.jetro.go.jp/en/reports/regulations/pdf/foodext201112e.pdf
Hàn Quốc
Hàn Quốc theo mô hình Nhật Bản. Quy định về thực phẩm thuộc Bộ An toàn Thực phẩm và Dược phẩm (MFDS), trước đây là KFDA. Bộ luật Thực phẩm có các thông tin liên quan về chất lượng và an toàn của thực phẩm bao gồm các mức tối đa cụ thể đối với chất gây ô nhiễm, kim loại nặng, dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng thuốc thú ý, v.v. Một trong những mối phiền toái đối với Hàn Quốc là chương trình “biển báo dừng”. Để bảo vệ học sinh nhỏ tuổi khỏi đồ ăn vặt, chính phủ đã quyết định cấm đồ ăn nhanh và soda trong phạm vi 200 mét từ các trường được chọn. Những khu vực trường học không có đồ ăn vặt này được gọi là Khu Thực phẩm Xanh. Hầu hết các sản phẩm bánh kẹo do giá trị dinh dưỡng thấp nên thường được dán nhãn “Vàng” và không được phép bán ở khu vực này. Trang web của MFDS là http://www.mfds.go.kr/eng/index.do?nMenuCode=4
Úc
Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Úc và New Zealand (FSANZ) là cơ quan chính phủ hai quốc gia. Cơ quan này đã phát triển Bộ luật Tiêu chuẩn Thực phẩm Australia New Zealand. Nó được thiết lập trên mô hình Codex. Bánh kẹo thuộc loại thực phẩm 5. Màu sắc được liệt kê trong Bảng 3 và 4. Các chất
phụ gia Bảng 3 nói chung là các màu từ nguồn tự nhiên, chất tổng hợp tương đương của màu có nguồn gốc tự nhiên hoặc là chất màu vô cơ. Các chất phụ gia này được phép sử dụng trong giới hạn gmp trong sản phẩm bánh kẹo. Các chất phụ gia Bảng 4 là các chất phụ gia tạo màu tổng hợp và được phép ở mức tối đa kết hợp là 290mg/kg trong thực phẩm đã qua chế biến. Trang web là http://www.foodstan dads.gov.au/Pages/default.aspx
MENA – Trung đông và bắc Châu Phi
Israel, Jordan, Lebanon, Malta và Syria tuân theo các quy định của EU nói chung. Thường có những yêu cầu đăng ký và phân loại thực phẩm khác nhau ảnh hưởng đến việc sử dụng màu. Israel, Jordan, Lebanon, Malta và Syria tuân theo các quy định của EU nói chung. Thường có những yêu cầu đăng ký và sự khác biệt về chủng loại thực phẩm ảnh hưởng đến việc sử dụng màu sắc.
Các quốc gia này tuân theo GCC: Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Ả Rập, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Gần đây được đề xuất với Tổ chức Thương mại Thế giới là một sự thay đổi để áp dụng Codex Alimentarius GFSA. Một hạn chế của việc áp dụng này là tất cả các chất phụ gia chưa đạt được tiến bộ hoàn toàn trong GFSA. Các quốc gia này ở MENA tuân theo một số loại quy định riêng hoặc không dễ theo dõi: Algeria, Djibouti, Ai Cập, Iran, Iraq, Libya, Morocco, Tunisia, West Bank và Gaza, và Yemen.
Những Khu Vực Khác
Nhiều quốc gia ở Nam Mỹ và Châu Phi theo JECFA/Codex đã thảo luận trước đó. Bởi vì nguyên tắc chung của Codex Alimentarius là hướng dẫn và thúc đẩy sự hài hòa hóa luật thực phẩm giữa các quốc gia và áp dụng các tiêu chuẩn đã được quốc tế thống nhất nên đây là một mô hình tốt để đi theo. Khi được triển khai đầy đủ, mô hình này sẽ giúp giảm bớt rào cản thương mại và vận chuyể tự do hơn các sản phẩm thực phẩm giữa các quốc gia, điều này sẽ mang lại lợi ích cho nông dân và gia đình họ, đồng thời giúp giảm đói nghèo
TRÊN TOÀN THẾ GIỚI
Những màu nào được phép trên toàn thế giới? Ngay cả với câu chuyện về Southampton, điều hay nhất vẫn là Red 40, Yellow 5, Yellow 6 và Blue 1, cũng như hầu hết các chất phụ gia tạo màu được Hoa Kỳ phê duyệt đều miễn chứng nhận. Hình 3 liệt kê các màu phổ biến nhất, với số INS tương ứng và ký hiệu màu Pantone điển hình.
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC
Nhìn chung, có một số vấn đề bổ sung về việc chấp nhận quy định cần được xem xét. Các quy định về màu sắc không dễ dàng để lập biểu đồ. Nhiều quốc gia, chẳng hạn như Hoa Kỳ, EU và JECFA có bộ thông số kỹ thuật về độ tinh khiết của riêng họ. Chứng nhận hoặc đăng ký có thể được yêu cầu. Các yêu cầu về ghi nhãn sẽ khác nhau tùy theo từng quốc gia. Các quy định thường lỏng lẻo và vấn đề cần được làm sáng tỏ.
Màu sắc và chất phụ gia có thể có một số vấn đề về dị ứng. Carmine đã gây ra phản ứng dị ứng ở một số ít người tiêu dùng. Một số loại caramel có chất sulfit. Sulfites có thể được sử dụng trong một số loại nước ép trái cây và rau quả. Ngoài ra, các chất mang và chất nhũ hóa được sử dụng trong hỗn hợp màu có thể là nguồn gây dị ứng và không nhạy cảm.
Tại thời điểm hiện tại, không có màu nào đến từ nguồn biến đổi gen. Tuy nhiên, chất mang và chất nhũ hóa được sử dụng trong màu sắc có thể từ các nguồn biến đổi gen, chẳng hạn như đậu nành và ngô. Có sự nhạy cảm về tôn giáo khác nhau tùy theo khu vực. Ví dụ, thành phần rượu có thể là vấn đề đối với các sản phẩm kosher và halal. Một số thành phần động vật có thể là vấn đề đối với sản phẩm kosher và halal, và các sản phẩm từ động vật là một vấn đề đối với sản phẩm chay.
NGUỒN THAM KHẢO
Australia http://www.foodstandards.gov.au/ Pages/ default.aspx
Burrows, Adam, JD. Palette of Our Palates: A Brief History of Food Coloring and Its Reg-ulation. Comprehensive Reviews in Food Science and Food Safety 8: 394-408, 2009
Canada http://www.hc-sc.gc.ca/fn-an/securit/addit/list/3-colour-color-eng.php
Canivet, Nicolas. Food Safety Certification. FAO Food Certification. FAO/WHO, June-July 2005. Web 21 Mar2006. ftp://ftp.fao. org/ag/agn/food/certification_programmes.pdf
CFR – Code of Federal Regulations Title 21.N.p., n.d. http://www.accessdata.fda.gov/scripts/cdrh/cfdocs/cfcfr/cfrsearch.cfm
DG Sanco https://webgate.ec.europa.eu/ sanco_foods/main/?event=display
EU https://webgate.ec.europa.eu/sanco_foods/main/?event=display
EU http://ec.europa.eu/food/food/fAEF/additives/lists_authorised_fA_en.htm
FAO/WHO Scientific Basis for Codex. Codex Alimentarius: Home. FAO/WHO, n.d.Web. 26 May 2014. http://www.codexalimentarius.net/web/index_en.jsp
Guidance Notes on the Classification of Food Extracts with Colouring Properties. Stand-ing Committee on the Food Chain and Animal Health (Nov. 11, 2013): n. pag. Print. http://ec.europa.eu/food/food/fAEF/additives/guidance_en.htm.
Japan http://www.jetro.go.jp/en/reports/regulations/pdf/foodext201112e.pdf
Jukes, David, PhD. Food Law. Food Law – Reading. N.p., n.d. Web. 26 May 2014. http://www.reading.ac.uk/foodlaw/
Korea http://www.mfds.go.kr/eng/index.do?n MenuCode=4
Marmion, Daniel M. Handbook of U.S. Col-orants: Foods, Drugs, Cosmetics, and Med-ical Devices. New York:Wiley, 1991
McAvoy, Sue Ann. Color Regulations: Chal-lenges in the Global Regulatory Environ-ment. Color Quality of Fresh and Processed Foods. N.p.: American Chemical Society 983:505-14, 2008. Print. June 13, 2008.
Milestones in Food and Drug Law History. About FDA. N.p., n.d. Web. 9 Nov. 2010. http://www.fda.gov/aboutFDA/whatwedo/History/milestones/ucm081229.htm
Pack, MM. Coloring, Food. Encyclopedia of Food and Culture. 2003. Encyclopedia.com. 9 Feb 2014. http://www.encyclopedia.com
Questions and Answers About Acceptable Daily Intake.IFIC. N.p.,Aug. 1996.Web. 26 May 2014. http://ific.org/publications/qa/adiqa.cfm
Science Matters. Prime Minister’s speech to the Royal Society. ePolitix, 23 May 2002.
White Junod, Suzanne, PhD. Colors and Cos-metics at The Centennial. Food and Drug Law Institute May/June Pp 43-50, 2006.
Wijesiri,Lionel.Read my lips. Sunday Observer Sunday April 10, 2005. http://www. Sundayobserver.lk/2005/04/10/mag03. html